Trong tuần, giá lúa thu mua ở ĐBSCL
đang nhích lên tằng từ 50-200 đ/kg so với tuần trước: giá lúa khô tại
kho loại thường trong tuần này dao động từ 5.450-5.550 đồng/kg, tăng 50
đồng/kg ; lúa dài từ 5.650-5.750 đồng/kg, tăng 150 đồng/kg; lúa IR 50404
giá từ 4.700 - 4.800 đồng/kg tăng 200 đ/kg . Giá gạo nguyên liệu loại 1
làm ra gạo 5% tấm hiện khoảng 7.000 – 7.100 đ/kg tùy từng địa phương,
gạo nguyên liệu làm ra gạo 25% tấm là 6.900 – 7.000 đ/kg tùy chất lượng
và địa phương. Giá gạo thành phẩm 5% tấm không bao bì tại mạn hiện
khoảng 8.400 – 8.500 đ/kg, gạo 15% tấm 7.900 – 8.000 đ/kg và gạo 25% tấm
khoảng 7.500 – 7.600 đ/kg tùy chất lượng và địa phương. Tuy giá lúa gạo
tăng nhưng nhiều nông dân không vui vì đã bán hết lúa hè thu cho thương
lái cách nay gần 1 tháng với giá khá thấp so với hiện nay và tính ra
trung bình mỗi công lời chưa tới 2 triệu đồng. Nhiều chuyên gia ngành
lúa gạo cho rằng việc chỉ trông chờ vào thị trường xuất khẩu nhưng không
dự báo được tình hình sẽ luôn đẩy nông dân vào cảnh chịu thiệt. Đáng lẽ
DN phải có thị trường trước, từ đó lên kế hoạch 1 năm xuất bao nhiêu
rồi đặt hàng nông dân. Nhưng hiện nay,ngành lúa gạo Việt Nam đi ngược
lại: Nông dân cứ trồng, khi có nhu cầu, thị trường thì DN mới mua.
Trong tuần, giá dừa trái giảm từ
4.000-5.000 đồng/chục so với tuần trước, tùy theo từng vùng giá dao động
từ 85.000 đồng đến 90.000 đồng/chục/12. Dừa loại 1 giá từ 105-110.000
đồng/chục. Dừa uống nước có giá từ 70.000 - 75.000đồng/chục/12 trái.
Riêng dừa xiêm xanh giá 85.000 - 95.000 đồng/chục/12 trái.
Sau gần 3 tháng rớt giá, trong những
ngày qua trái cây khu vực Đồng bằng Sông Cửu Long và các tỉnh miền Đông
Nam Bộ và trên thị trường giá tăng mạnh trở lại.Mặt hàng xoài đến gần
cuối vụ giá mới tăng cao, hiện giá xoài cát Hòa Lộc (Tiền Giang) đạt
90.000- 110.000đồng/kg cao gấp nhiều lần so với trước. Sầu Riêng hạt
lép, cách đây 2 tuần có giá 20.000 đồng/kg, nay tăng lên 35.000 đồng/kg.
Hiện giá ổi được các thương lái thu mua tại vườn từ 4.000 - 5.000
đồng/kg (tùy kích cỡ và độ bóng đẹp của trái ổi), tăng hơn 2 lần so với
thời điểm cách đây gần một tháng, giá thanh long trước kia rớt giá thê
thảm, chỉ còn 3.000 - 4.000 đồng/kg thì nay đã lên 10.000 - 17.000
đồng/kg (tùy loại), tức tăng giá đến hơn 4-5 lần. Măng cụt ĐBSCL và Lái
Thiêu (Bình Dương) lần đầu tiên măng cụt đạt mức 30.000 - 45.000
đồng/kg, cao nhất trong năm thay vì chỉ có 20.000 – 25.000 đồng/kg so
với tháng trước. Theo các chủ vườn ở miền Tây, do đang vào cuối vụ, trái
cây không còn nhiều như vài tháng trước nên giá mới tăng trở lại. Tuy
nhiên bưởi da xanh lại giảm từ 2.000-4.000 đồng/kg dao động từ
46.000-48.000 đồng/kg, bưởi năm roi vẫn ổn định.
Những tín hiệu từ thị trường tiêu thụ
tôm gần đây tạo không khí lạc quan cho người nuôi, nhưng nó cũng đặt ra
không ít băn khoăn từ nay đến cuối vụ. Từ tháng 4 đến tháng 5, có lúc
tôm thẻ chân trắng loại 100 con/kg chỉ còn 70.000 đồng/kg, nên chỉ có
30% số hộ thu hoạch trong thời điểm này có lời chút ít. Còn lại từ huề
đến lỗ, dù năng suất bình quân đến 5 tấn/ha. Nguyên nhân làm cho giá tôm
giảm mạnh, ngoài sự cạnh tranh giữa các nước trong khu vực, còn do tác
động từ thuế chống bán phá giá của Mỹ và cả những dự báo sai lệch về sản
lượng tôm toàn cầu. Gần đây, giá tôm đã được cải thiện đáng kể, hiện
tôm thẻ chân trắng loại 100 con/kg có giá từ 100.000 đồng/kg trở lên. Lý
giải cho việc tôm thẻ tăng giá trở lại, mặc dù Ấn Độ và Ecuador vẫn
trúng mùa, nhưng tôm nuôi của Thái Lan, Trung Quốc và Malaysia vẫn bị
thiệt hại nặng do hội chứng chết sớm (EMS) nên nguồn cung không còn dồi
dào như tháng 5 vừa qua. Trong khi đó, nhu cầu tiêu thụ tại một số thị
trường vẫn không suy giảm, khiến giá tôm tăng trở lại và dự báo sẽ còn
tiếp tục tăng khoảng 10-15% từ nay đến tháng 10-2014. Nếu diễn biến thị
trường đúng như dự báo, theo tính toán của người nuôi, nếu tôm thẻ loại
100 con/kg được giá 110.000-115.000 đồng/kg, nếu nuôi đạt năng suất,
người nuôi sẽ có lợi nhuận từ 40.000-45.000 đồng/kg tôm thương phẩm.
TT
|
Mặt hàng
|
Giá (đồng/kg)
|
Tăng
(đồng/kg)
|
Giảm
(đồng/kg)
|
Ghi chú
(so sánh với tuần- tháng )
|
1
|
Lúa loại thường (khô) |
5.450-5.550
|
50
|
Tăng so với tuần trước |
|
2
|
Lúa hạt dài ( khô) |
5.650-5.750
|
150
|
Tăng so với tuần trước |
|
3
|
Lúa IR 50404 |
4.700 - 4.800
|
200
|
Tăng so với tuần trước |
|
3
|
Bưởi da xanh (mua tại vườn) |
40.000- 43.000
|
Giảm so với tuần trước |
||
4
|
Bưởi da xanh (mua tại vựa loại I) |
46.000-48.000 |
2.000-4.000
|
Giảm so với tuần trước |
|
5 |
Bưởi năm Roi loại 1 25 |
25.000
|
1.000-5.000
|
Giảm so với tuần trước |
|
7
|
Hạt Ca cao khô ( cộng thưởng) |
57.000-.57.500 |
|||
8
|
Ca cao tươi |
6.000
|
|||
9
|
Tôm sú (20con/kg) |
260.000-270.000
|
|||
10
|
Tôm sú ( 30 con/kg) |
235.000-240.000
|
|||
11
|
Tôm thẻ chân trắng (100 con) |
100.000-105.000
|
|||
12
|
Cá tra thịt vàng |
21.500
|
|||
13
|
Cá Tra thịt trắng |
22.000
|
|||
14
|
Cá điêu hồng |
40.000-42.000
|
|||
15
|
Gà công nghiệp |
27.000-28.000
|
|||
16
|
Gà thả vườn |
90.000-100.000
|
|||
17
|
Heo hơi |
52.000-55.000
|
TT
|
Mặt hàng
|
ĐVT
|
Giá (đồng/ chục)
|
Tăng
(đồng)
|
Giảm
(đồng)
|
Ghi chú
(so sánh với tuần, tháng trước)
|
1
|
Dừa khô loại 1 |
Chục
|
105.000- 110.000 |
5.000 |
Giảm so với tuần trước |
|
2
|
Dừa khô ( mua tại vựa) |
Chục
|
80.000-90.000 |
5.000 |
Giảm so với tuần trước |
|
2
|
Dừa khô mua xô( Thương lái tự bẻ) |
Chục
|
60.000-65.000 |
|||
3
|
Dừa xiêm xanh |
Chục
|
85.000-95.000 |
5.000 |
Giảm so với tuần trước |
|
3
|
Dừa uống nước |
Chục
|
70.000-75.000 |
5.000 |
Giảm so với tuần trước |
SỞ NN VÀ PTNT BẾN TRE