(HQ Online)- Nông sản là một trong
những mặt hàng có thế mạnh XK của Việt Nam, song việc tìm kiếm thị
trường tiêu thụ lại gặp không ít khó khăn. Nỗi ám ảnh “được mùa mất giá”
như nghịch cảnh luôn lặp lại với DN và người nông dân.
Có “tiếng” vẫn khó
Nhờ có một chút “tiếng tăm” trên thị
trường nông sản Việt Nam nên các sản phẩm xoài Hoà Lộc của Hợp tác xã
xoài cát Hoà Lộc (Tiền Giang) đã XK được sang thị trường Nhật Bản. Với
khoảng 40% lượng sản xuất ra được đưa đi XK, song hầu hết sản phẩm XK
của Hoà Lộc đều là sản phẩm thô chưa qua chế biến nên giá trị mang về
không được như kỳ vọng.
Ông Nguyễn Thành Nhơn, Chủ nhiệm Hợp tác
xã xoài cát Hoà Lộc cho biết, lượng xoài cung ứng cho DN chế biến của
Nhật Bản khá ổn định nên đã giúp hợp tác xã có đầu ra cho khoảng gần 40%
sản phẩm. Tuy nhiên, để giữ đơn hàng và duy trì “mối” làm ăn này, hợp
tác xã phải đảm bảo các yêu cầu và tiêu chuẩn khắt khe trong khâu trồng
và bảo quản sản phẩm. Do đó, với sự hỗ trợ từ các cơ quan ban, ngành, mô
hình kết hợp giữa nhà nông và nhà khoa học đã được ứng dụng ở Hợp tác
xã xoài cát Hoà Lộc nhằm tạo nên các sản phẩm được sản xuất theo tiêu
chuẩn VietGap và Global Gap, áp dụng công nghệ sau thu hoạch như xử lý
nước nóng để bảo quản sản phẩm tốt hơn.
“Với năng lực hạn chế nên hợp tác xã chưa
thể tự đầu tư, mở rộng vào khâu chế biến để XK trực tiếp mà phải thông
qua một DN chế biến của Nhật Bản. Mặc dù lượng hàng đưa đi XK có giá trị
cao hơn tiêu thụ nội địa đến 20%, song việc bị phụ thuộc vào một nhà NK
duy nhất cũng chứa đựng rủi ro khi đối tác có thể dừng đơn hàng bất cứ
lúc nào. Chưa kể, các sản phẩm xuất đi đều là sản phẩm thô nên giá trị
mà chúng tôi thu lại vẫn chưa được như kỳ vọng so với giá trị thương
hiệu sản phẩm đã xây dựng”, ông Nhơn nói.
Đối với Công ty Trách nhiệm hữu hạn Long
Uyên - DN chuyên XK các sản phẩm trái cây, rau củ chế biến - dù đã chủ
động được khâu chế biến, song việc tìm kiếm và mở rộng thị trường cũng
không phải là bài toán đơn giản. Theo ông Phan Quốc Nam, Giám đốc Công
ty Long Uyên, để các sản phẩm nông sản chế biến có thể thâm nhập được
vào các thị trường tiềm năng như EU, Hàn Quốc, DN đã phải đầu tư khoảng
20 tỷ đồng để nâng cấp dây chuyền, thiết bị công nghệ mới, nâng công
suất nhà máy lên 2.000 tấn sản phẩm/năm. Với ưu thế các dòng sản phẩm
chế biến cao cấp, DN này đang “nhắm” đến Nhật Bản, song đây là thị
trường khó tính nên việc tìm kiếm được hợp đồng rất khó khăn.
Cần liên kết và thông tin
“Với tiềm năng sản phẩm trái cây vùng Đồng
bằng Nam bộ và lợi thế nhà máy sản xuất, chế biến, DN định hướng sẽ mở
rộng thị trường và đối tác XK sang Nhật Bản. Mới đây, chúng tôi đã chi
ra hàng trăm triệu đồng để tham dự một hội chợ xúc tiến thương mại, giới
thiệu sản phẩm nông sản, thực phẩm tại nước này để chào hàng và tìm
kiếm đối tác. Hiện cũng đang có khách hàng đến tìm hiểu thông tin về DN
và sản phẩm, thăm quan nhà máy sản xuất, song việc ký được hợp đồng cũng
còn là vấn đề thời gian do đây là thị trường rất kỹ tính, yêu cầu rất
khắt khe về chất lượng sản phẩm, đặc biệt là vệ sinh an toàn thực phẩm
mà thời gian giao hàng phải đúng hạn, sản phẩm có chất lượng đồng đều”,
ông Nam nói.
Dù còn nhiều khó khăn trong việc tìm đường
xuất ngoại cho các sản phẩm nông sản Việt, song những mô hình hoạt động
như Hợp tác xã xoài cát Hoà Lộc hay Công ty Long Uyên vẫn được đánh giá
là những “điểm sáng”. Theo PGS.TS Võ Tòng Xuân, chuyên gia về nông
nghiệp, phần lớn người nông dân trồng các loại cây nông sản đều không
theo nhu cầu đặt hàng của thị trường. Do mô hình nông dân liên kết trong
các hợp tác xã, DN để hình thành nên chuỗi giá trị hay đặt hàng theo
yêu cầu của DN là rất ít, nên hoạt động XK nông sản vẫn chưa mang lại
giá trị tương xứng với tiềm năng mặt hàng này. Đặc biệt, do không nằm
trong chuỗi giá trị và thiếu thông tin thị trường nên phần lớn người sản
xuất các sản phẩm nông sản vẫn cứ “loay hoay” với việc tìm đầu ra cho
thị trường.
“Điểm nóng” gần đây nhất là chuyện ách tắc
dưa hấu trên đường đưa đi XK sang Trung Quốc được nhắc đến như một ví
dụ điển hình khi người sản xuất, thương lái và DN thiếu thông tin thị
trường. Ông Trần Thanh Hải, Phó Vụ trưởng Vụ XNK - Bộ Công Thương cho
rằng, không chỉ khâu điều tiết sản xuất lỏng lẻo khiến người dân ồ ạt
trồng với diện tích lớn, sản lượng tăng đột biến, mà việc nắm thông tin
thị trường còn hạn chế, khiến cho nhiều sản phẩm nông sản gặp khó khăn
tìm đường tiêu thụ XK. Đặc biệt, tình trạng người sản xuất, thương lái
DN chỉ “nghe” thông tin XK tại cửa khẩu biên giới có giá tốt, đã chở
hàng đi tiêu thụ, bất chấp việc chưa ký được hợp đồng nên dẫn đến tình
trạng bị ép giá.
Theo các chuyên gia, bên cạnh việc nhân
rộng các mô hình liên kết hợp tác giữa người trồng nông sản với nhà khoa
học và DN, nhằm nâng cao giá trị gia tăng cho sản phẩm, cần có các
chính sách hỗ trợ thông tin thị trường XK cho người sản xuất và DN. Đặc
biệt, cần gắn quy hoạch sản xuất với nhu cầu thị trường, dựa trên cơ sở
tiềm năng của từng địa phương, từng vùng để định hướng sản xuất cho
người nông dân, từ đó liên kết với DN và thị trường nhằm đảm bảo có đầu
ra bền vững cho nông sản.