Là một trong số những nguyên
nhân được PGS.TS Nguyễn Văn Nam, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu
thương mại chỉ ra trước tình trạng thời gian vừa qua giá xuất khẩu các
mặt hàng nông sản lúc tăng lúc giảm, nguyên liệu lúc thừa, lúc thiếu.
Quản lý theo kiểu bao cấp
PV: - Thời
gian vừa qua, giá xuất khẩu các mặt hàng nông sản lúc tăng lúc giảm,
nguyên liệu lúc thừa lúc thiếu, theo ông trách nhiệm của Bộ Công thương
như thế nào khi để xảy ra tình trạng này?
PGS TS Nguyễn Văn Nam:
- Sản xuất hàng hóa nông sản là một chuỗi bắt đầu từ khâu sản xuất cho
đến khâu chế biến, xuất khẩu gắn chặt với nhau nó liên quan chịu trách
nhiệm nhưng trong quản lý nhà nước lại có sự chia cắt. Cụ thể, Bộ Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn phụ trách phần sản xuất của nông dân, Bộ
Công thương phụ trách phần chế biến và xuất khẩu, xúc tiến thương mại.
Ngoài ra, có lúc Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cũng làm nhiệm
vụ chế biến.
Như vậy, sẽ tạo ra bất cập trong quản
lý, bộ máy quản lý từ thời bao cấp đến bây giờ vẫn chưa chuyển biến theo
cơ chế thị trường. Ngay sản xuất cũng phải hướng tới thị trường chứ
không thể sản xuất chỉ biết sản xuất, thực hiện việc xúc tiến thương mại
phải tính toán nguồn hàng ở đâu, tính chuyện bán để có lãi. Bộ máy quản
lý theo thời bao cấp không phù hợp với cơ chế thị trường nên không làm
được lại trả lời không phải trách nhiệm của họ, đùn đẩy trách nhiệm cho
nhau.
Theo tôi, nhà nước phải cơ cấu lại tổ chức
bộ máy, không ngắt quãng mà theo từng mặt hàng, từng đơn vị, cơ quan
phải phụ trách từ A đến Z. Chịu trách nhiệm từ khâu sản xuất đến khâu
cuối cùng cho đến đầu đến đũa thậm chí phải có cả kế hoạch để xử lý
trước sự cạnh tranh của hàng ngoại, hàng giả, hàng nhái... thay vì không
có sự quản lý chặt chẽ như thời gian vừa qua.
PV: -
Đại diện Bộ Công thương trong cuộc họp báo thường kỳ diễn ra vào ngày
5/5 cho biết, Bộ đã tập trung mở rộng thị trường nông sảnvà các mặt
hàng hóa khác, đẩy mạnh hoạt động xúc tiến thương mại tại tất cả các thị
trường. Song thực tế lại cho thấy, việc xuất khẩu các mặt hàng nông sản thời gian vừa qua vẫn gặp khó khăn như tình trạng dưa hấu ùn tắc tại
cửa khẩu Tân Thanh (Trung Quốc), Trung Quốc ngừng thu mua ớt, xoài khiến
giá giảm sâu, nông dân điêu đứng... Ông lý giải thực tế này như thế
nào?
PGS TS Phạm Văn Nam: -
Do sự chia cắt nên Bộ Công thương chỉ biết mua bán, không nắm được nguồn
hàng nhiều hay ít hoặc có khi nắm được nhu cầu của thị trường nhưng lại
không phản ánh xuống cho khâu sản xuất.
Dưa hấu và nhiều mặt hàng nông sản khác thời gian vừa qua rơi vào tình trạng giá lúc tăng lúc giảm, nguyên liệu lúc thừa lúc thiếu |
Yếu
kém thứ 2 là các Bộ ngành chưa làm hết trách nhiệm được phân công, thực
tế thời gian vừa qua khi xử lý nhiều tình huống, hầu hết nước đến chân
mới nhảy, việc xảy ra mới xử lý thay vì theo dõi từ đầu đến cuối, chuẩn
bị đối sách xử lý các tình huống đột xuất có thể xảy ra.
Thứ
3, trách nhiệm phải liên hệ với đối tác nhưng lại không liên hệ chặt
chẽ nên không biết nhu cầu của họ ra sao, và khả năng tiêu thụ và thông
quan cụ thể như thế nào.
Vắt kiệt sức nông dân
PV: -
Nhiều chuyên gia đã chứng minh xuất khẩu nông sản Việt Nam phụ thuộc
quá nhiều vào thị trường Trung Quốc. Ở chiều ngược lại, thương lái Trung
Quốc nhập khẩu hoa quả, nông sản Việt Nam rồi phân loại, dán mác bán
lại cho người Việt với giá cao. Trong khi Việt Nam nhập hoa quả, nông sản Trung Quốc không rõ nguồn gốc, thậm chí độc hại. Từ thực tế đó có
thể hiểu, Trung Quốc điều tra thị trường nông sản, xúc tiến thương mại
cho dân Trung Quốc tốt hơn, bài bản hơn...Việt Nam không và vì sao, thưa
ông?
PGS TS Nguyễn Văn Nam: -
Đây là thực tế đã diễn ra nhiều năm. Đáng ra ở điểm này có thể là cơ
hội cho Việt Nam nhưng Việt Nam lại không biết chớp lấy cơ hội. Trung
Quốc là thị trường với 1,3 tỷ dân, Trung Quốc đang tiến hành công nghiệp
hóa, họ phải thu hẹp sản xuất nông nghiệp nên họ không có đủ sản phẩm
để dùng nên có thể thấy đây là một cơ hội cực lớn cho Việt Nam để xuất
khẩu nông sản các loại nguyên liệu và chế biến nhưng Việt Nam lại không
nắm bắt cơ hội để chuẩn bị lực lượng.
Từ trước đến
nay, Việt Nam xuất sang Trung Quốc chỉ là khi Trung Quốc có nhu cầu mua
mới đưa hàng đến bán, không có giao dịch trước, hợp đồng dài hạn và quy
cách tiêu chuẩn để xuất khẩu chính ngạch. Có thể thấy hình ảnh khi
Trung Quốc có nhu cầu mua thương lái Việt Nam lại hùng hục chở lên biên
giới để bán tiểu ngạch. Việt Nam cần phải thấy cơ hội để chuẩn bị bài
bản, biết mới tổ chức cho nông dân tập trung sản xuất tiêu thụ.
Thêm
nữa, lối mua bán của Việt Nam từ trước đến nay vẫn là lối mua bán chộp
giật, tức là có khách mua lãi 1-2 đồng cũng đua nhau đổ xô vào bán, khi
đổ xô vào bán, cung nhiều cầu ít khiến giá bị thấp.
Các
bộ ngành chức năng phải nắm chắc, thông tin cho người sản xuất và các
doanh nghiệp biết. Nghiệp vụ thương mại phải nâng cao, mua bán trao tay
tiến tới hợp đồng, từ hợp đồng ngắn hạn đến hợp đồng dài hạn, tiến tới
mua bán kỳ hạn bảo đảm.
Nghiệp vụ thương mại ở các
nước như Thái Lan, Malaysia đã làm theo thông lệ quốc tế, ít khi buôn
bán tiểu ngạch vì tiểu ngạch rất nhỏ, họ làm chính ngạch theo những hợp
đồng kỳ hạn, gắn vào chuỗi giá trị sản phẩm toàn cầu, buôn bán thay vì
buôn bán tiểu ngạch và chộp giật song Việt Nam qua mấy chục năm đổi mới
nhưng nghiệp vụ thương mại vẫn chưa tiến bộ được bao nhiêu.
PV: -
Liên quan đến việc thương vụ bán 800.000 tấn gạo cho Philippines thông
qua hình thức đấu thầu diễn ra gần đây, Hiệp hội Lương thực Việt Nam
VFA, trực tiếp là 2 Tổng Công ty Lương thực Vinafood 1, Vinafood 2 đã
chào bán với giá quá bèo, mất đi khoản tiền khổng lồ, ước tính lên tới
23,2 triệu USD. Phải chăng do không am hiểu đối thủ và những quyết định
non kém đã dẫn đến điều này, hậu quả sẽ là gì, thừa ông?
PGS TS Nguyễn Văn Nam:
- Từ trước đến nay, do nghiệp vụ thương mại kém cỏi nên không tiến hành
giao dịch được, không tiến hành mua bán hợp đồng dài hạn, gạo Việt Nam
đều thấp hơn giá gạo Thái Lan, trước đây là 50-60 USD/tấn thậm chí thấp
hơn 100 USD/tấn.
Đội ngũ thương nhân Việt Nam tầm
còn thấp, không có nghiệp vụ, mua bán chưa vững vàng nên sợ ế, không bán
được, khi đấu thầu đặt giá thấp để chắc thắng nhưng đặt giá thấp nếu
nông dân giữ giá cao, họ sẽ là người thua lỗ nhưng thế mạnh không nằm
trong tay nông dân mà nằm trong tay các Tổng công ty Lương thực nên các
Tổng công ty này lại ép giá khiến giá lúa gạo thu mua của nông dân sẽ ở
mức thấp, việc đấu thầu giá thấp đẩy cho nông dân gánh.
Với
lần bỏ thầu giá thấp này, tất cả thương nhân nước ngoài mua gạo Việt
Nam đều lấy giá này làm đối sánh đánh sập toàn bộ giá gạo Việt Nam xuống
thấp. Ngành lúa gạo Việt Nam là một thế mạnh nhưng càng ngày càng bị
bào mòn, vắt kiệt sức của nông dân do sự yếu kém của thương nhân và nhà
nước tổ chức quản lý chuỗi giá trị sản phẩm gạo không làm được. Nhà nước
yếu kém không quản lý lại để quan chức về hưu làm Hiệp hội không có tư
duy về kinh doanh mà chỉ ngồi để ăn chặn, tiếp tục lấy tư duy bao cấp ra
làm.
PV: - Có thể thấy, trong
mọi rủi ro của sản xuất nông nghiệp, người nông dân luôn là người chịu
thiệt hại đầu tiên và gần như là duy nhất. Ông bình luận như thế nào về
thực tế này? Và để người nông dân thoát khỏi tình trạng thiệt trăm đường
như hiện nay, phải có những biện pháp thế nào, thưa ông?
PGS TS Nguyễn Văn Nam:
- Với cách mua bán như hiện nay chỉ nông dân là người chịu thiệt cho
nên phải cải cách toàn bộ hệ thống thương mại, chuyển sang thương mại
chính ngạch và hợp đồng kỳ hạn. Như cà phê là mặt hàng lớn nhưng đến nay
vẫn hái đến đâu bán đến đấy, thiết lập sàn giao dịch cà phê nhưng mấy
năm nay vẫn không làm được trong khi các nước khác như Singapore, Thái
Lan đã có rất nhiều sàn giao dịch, nhỏ như Hồng Kông cũng có nhiều sàn
giao dịch. Mua bán như vậy mới có lợi cho nông dân, chưa sản xuất xong
họ đã biết giá bán của mặt hàng là bao nhiêu.
Tâm An